Sử dụng Monopropellant

Chất đẩy monopropellant được sử dụng phổ biến nhất[2] trong động cơ tên lửa có xung lực thấp,[3] như các động cơ điều chỉnh trạng thái tên lửa bằng luồng phụt, loại nhiên liệu được sử dụng thông thường là hydrazine[4][5], được phân hủy bằng cách phơi nhiễm bởi một lớp chất xúc tác là iridium[6][7] (hydrazine đã được gia nhiệt từ trước đó để giữ chất phản ứng ở dạng lỏng). Quá trình phân hủy tạo ra khí nóng và từ đó tạo ra lực đẩy. Hydrogen peroxide đậm đặc[8] đóng vai trò là nguồn nhiên liệu cho các tên lửa như V-2 và tên lửa đạn đạo tầm trung PGM-11 Redstone của Mỹ.[9] hydrogen peroxide sẽ được dẫn xuyên qua lưới xúc tác platinum,[8] hoặc sẽ tiếp xúc với manganese dioxide thấm gốm, hoặc Z-Stoff permanganate. Các chất xúc tác này sẽ làm hydrogen peroxide bị phân hủy tạo thành khí nóng và oxy.

Monopropellant cũng được sử dụng trong một vài hệ thống đẩy độc lập không cần không khí-air-independent propulsion (AIP) để làm "nhiên liệu" trao đổi hoặc động cơ turbine trong môi trường không có khí oxy tự do. Các loại vũ khí chính của các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân cũng sử dụng chất đẩy monopropellant. Chất đẩy monopropellant phổ biến nhất sử dụng trong trường hợp này là propylene glycol dinitrate (PGDN) ổn định, hay còn được gọi dưới cái tên "nhiên liệu Otto-Otto fuel". Một ứng dụng tiềm năng trong tương lai của chất đẩy monopropellant là sử dụng trong các máy phát điện cường độ cao, nhỏ gọn, sử dụng trong môi trường thiếu oxy dưới nước hoặc ngoài khí quyển.